Có một trò chơi của trẻ con từ thuở xa xưa tại các miền quê Việt Nam mà có lẽ ngày nay trong thời điện tử 4.0 này các em không còn…chơi nữa đó là trò “Thiên Đàng – Hoả Ngục hai bên”:
Bắt đầu chọn hai đứa khoẻ mạnh, cao to hơn những đứa khác, đứng quay mặt đối diện nhau, tay phải của đứa này nắm lấy tay trái của đứa kia, giơ cao lên làm thành cái cổng Thiên Đàng và Hoả Ngục. Tất cả những đứa còn lại phải xắp hàng nối đuôi nhau chui qua cánh cổng đang giơ cao này vừa đi vừa hát:
Thiên Đàng, Hoả Ngục hai bên
Ai khôn thì về. Ai dại thì sa
Đêm ngày nhớ Chúa nhớ Cha
Đọc kinh cầu nguyện, khỏi sa linh hồn
Linh hồn phải giữ linh hồn
Đến khi ngày chết được lên Thiên Đàng.
Khi đọc sắp hết câu cuối thì cả bọn bắt đầu tăng tốc, đi nhanh lên để kịp chui qua cổng chót lọt kẻo bị hai người làm cổng hạ xuống, chụp bắt ngay tại cổng. Ai bị bắt lại phải trả lời hai câu hỏi: Muốn lên Thiên Đàng hay xuống Hoả Ngục ?
Nếu trả lời muốn lên Thiên Đàng sẽ được hai đứa làm cổng lấy tay làm kiệu cho ngồi lên trên đi vòng vòng một đoạn. Còn nếu đứa nào chọn Hoả Ngục thì sẽ bị hai đứa làm cổng giơ hai cánh tay của chúng, chặt cổ rồi bị đẩy thật mạnh đuổi ra khỏi cổng mà nạn nhân đang bị bắt đứng ở giữa. Rồi trò chơi cứ thế tiếp tục khi hết người cuối cùng. Ai cũng phải chọn muốn lên Thiên Đàng hay xuống Hoả Ngục” ( Nguồn: Trường Mầm Non Thuỷ Tiên ).
Như đã nói, trò chơi này chỉ dành cho trẻ em nơi các miền quê. Thế nhưng qua những lời lẽ của trò chơi cho thấy nó chứa đựng một ý nghĩa hết sức sâu xa đó là con người ta có quyền lựa chọn giữa Thiên Đàng và Hoả Ngục và sự lựa chọn ấy lại được quyết định nơi sự kiên trì có Nhớ đến Chúa đến Cha hay không ?
Với sự lựa chọn ấy, con người đã thể hiện tính chất nghịch lý của mình. “Ai khôn thì về. Ai dại thì sa”. Về đây là về hưởng phước Thiên Đàng. Còn sa là sa xuống Hoả Ngục đời đời kiếp kiếp ! Được về hay không là do ở nơi cái sự lựa chọn. Đại đa số con người lại chọn cho mình…sa Hoả Ngục chỉ vì còn giữ riệt lấy “ Cái Tôi” để vướng vào hai cái chấp sâu dày. Một là chấp cho xác thân này là mình để rối cố sức lo cho nó được đủ đầy,sung sướng. Hai là chấp tâm tưởng này là mình để rồi sống mãi trong vọng tưởng, điên đảo, lấy thật làm giả, lấy giả làm thật ! Ngược lại, muốn về Thiên Đàng thì phải Bỏ Mình theo Chúa: “ Ai muốn theo Ta thì hãy từ bỏ mình, vác thập tự giá mình hàng ngày mà theo. Vì hễ ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn hễ ai bỏ mạng sống mình vì cớ Ta thì sẽ tìm lại được” Lc 9, 23 -24 ).
Bỏ đi lại được. Cái lẽ được, mất, hơn thua của Đạo Chúa là một nghịch lý quan trọng nhất của đời sống tâm linh. Thế nhưng, người đời thường lại rất khó để mà chấp nhận vì đã vương mang hai cái chấp sâu dày: Một là chấp cho xác thân này là mình. Hai là chấp cho tâm tưởng này là mình. Với hai cái chấp đó, con người ta không thể không bị trói buộc trong vòng Tham, Sân, Si để gây khổ đau cho mình và cho người !!!
Chính vì tính chất khổ đau do việc chấp có mình ( Tôi, Ta, Ngã ) như thế nên Đức Ki Tô đã truyền dạy việc Bỏ Mình hầu giải thoát khỏi khổ đau. Tuy nhiên việc giải thoát ấy lại là do sự lựa chọn của mỗi người, không ai có thể làm thay cho ai được ! Phương thế của sự lựa chọn ấy, tuy vậy lại dễ mà khó. Khó mà dễ. Chỉ cần ta kiên trì cầu nguyện trong sự tỉnh thức như trong trò chơi Thiên Đàng – Hoả Ngục: “ Đêm ngày nhớ Chúa nhớ Cha. Đọc kinh cầu nguyện kẻo sa linh hồn”.
Mục đích cầu nguyện là để cho ta được Nhớ đến Chúa. Ta có Nhớ Chúa thì Chúa mới Nhớ đến ta. Đây là cái lẽ “ Đồng thanh tương ứng. Đồng khí tương cầu của Dịch Học, rất chi là sâu xa, ấy vậy mà người đời lại coi thường ? Tuy vậy, ở đây có một vấn đề rất ư quan trọng có liên quan đến việc giải nghĩa Kinh Thánh. Thực sự thì có Thiên Đàng ó Hoả Ngục hay không ? Đang khi đó Đức Ki Tô chỉ rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa chứ có nói gì đến Thiên Đàng đời sau ?
Đức Giê Su Ki Tô được sai xuống thế gian với mục đích để rao giảng Nước Thiên Chúa như chính Ngài đã xác nhận: “ Vừa rạng ngày Ngài ra đi đến nơi thanh vắng. Có quần chúng theo kịp và muốn giữ Ngài ở lại với họ. Nhưng Ngài nói: Ta cũng cần phải rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành thị khác. Vì cốt tại việc đó mà Ta được sai đến” (Lc 4, 42 -43).
Mục đích xuống thế của Đức Ki Tô là để rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Thế nhưng Nước Thiên Chúa lại là một mầu nhiệm khôn ví, không thể dùng ngôn ngữ diễn tả được thế nên Chúa chỉ có thể dùng dụ ngôn cũng thật khó để quần chúng có thể hiểu được:
“ Nước Trời giống như của báu chôn trong ruộng, có người tìm được thì yểm đi, vui mừng mà đi bán hết tài sản mình mà mua lấy thửa ruộng đó…Nước Trời lại ví như người lái buôn kia, kiếm được ngọc châu tốt đẹp. Khi tìm được viên ngọc châu rất quý đó thì đi bán hết tài sản mình mà mua nó. Nước Trời cũng ví như lưới quét thả xuống biển, gom đủ mọi thứ. Khi lưới đã đầy thì người ta kéo lên bờ rồi ngồi xuống mà dồn những thứ tốt vào rổ. Còn thứ xấu thì ném bỏ đi” ( Mt 13, 44 -48 ).
Qua những dụ ngôn trên đây cho thấy Nước Trời là một mầu nhiệm khôn tả, chẳng những người đời không hiểu mà ngay đến thần học hiện nay cũng chẳng thể tiếp nhận và phải chăng cũng chính vì thế người ta đã thay thế Nước Trời mà Đức Ki Tô rao giảng bằng cái gọi là Triều Đại Thiên Chúa: “ Người Pharisieu hỏi Chúa Giê Su bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến ? Ngài trả lời: Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều gì đó có thể quan sát được và người ta sẽ không nói ở đây này hay ở kia kìa. Vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” ( Lc 17, 20 -21 ).
Sở dĩ có sự thay đổi từ Nước Trời mầu nhiệm thành ra Triều Đại Thiên Chúa là do cách hiểu chữ “ Ở trong” thành ra “ Ở giữa” theo như chú thích ( b ) trong bản dịch của Nhóm CGKPV như sau:“ Có người dịch ở trong các ông nhưng dịch như thế có thể làm cho người ta hiểu lầm rằng Triều Đại Thiên Chúa chỉ là một việc nội tâm, riêng tư. Đối với Đức Giê Su, Triều Đại Thiên Chúa dành cho toàn dân Chúa và đã là một thực tại đang hoạt động để cứu độ loài người. Các ông có thể đạt tới được” ( Kinh Thánh Tân Ước 1984 ).
Thay Nước Trời mầu nhiệm bằng Triều Đại Thiên Chúa. Điều này chẳng liên quan gì đến cách dịch “ Ở trong” hay “ Ở giữa” nhưng đó thay đổi cả một quan điểm và quan điểm ấy chính là sự Tục Hoá Nước Trời hay như thánh Phao Lô nói: “ người ta đã theo một Tin Mừng Khác, không phải là Tin Mừng của Đức Giê Su Ki Tô và điều đó đáng bị nguyền rủa” ( Gl 1, 6 -10 ).
Một đàng Đức Ki Tô rao giảng Nước Trời mầu nhiệm, nội tại. Một đàng Giáo Hội trước CĐ Vatican II lại hết lòng tin tưởng và đặt tất cả niềm hy vọng trong đời sau: “ Vì chúng ta được cứu trong sự hy vọng nhưng sự hy vọng đã thấy được thì không còn là hy vọng nữa. Vì có ai lại hy vọng điều mình đã thấy rồi ử ? Song nếu chúng ta hy vọng điều mình chưa thấy thì chúng ta mới nhẫn nại mà đợi trông” ( Rm 8, 24 -25 ).
Lòng nhẫn nại, cậy trông là hết sức cần thiết cho việc cứu rỗi linh hồn bởi chưng Đạo Chúa là đạo của sự nhẫn nại: “ Vì ngươi đã giữ đạo của sự nhẫn nại Ta. Ta cũng sẽ giữ ngươi khỏi giờ thử thách là giờ sắp đến trong khắp thiên hạ để thử những người trên mặt đất” ( Kh 3, 10 ).
Giờ thử thách sắp đến chính là thời này đây, thời cuối của Ơn Cứu Độ. Vào thời này, người ta hầu như đã mất đi đức tin chân chính: “ Chẳng biết ngày Ta đến có tìm được đức tin trên mặt đất này chăng” ( Lc 18, 8 ).Một khi đức tin đã mất thì con người ta cũng chẳng thể nào có lòng nhẫn nại, đợi trông. Tuy nhiên như Chúa Giê Su trong dụ ngôn viên quan án và người đàn bà goá: “ Vậy Thiên Chúa há chẳng minh oan cho những kẻ đêm ngày kêu cầu Ngài. Dẫu Ngài đã nín nhịn quá lâu rồi ư ? ( Lc 18, 8 ). Thiên Chúa sẽ tha thứ và ban ơn cho những ai có lòng kiên trì trong tỉnh thức cầu nguyện: “ Vậy hãy tỉnh thức vì các ngươi không biết Chúa các ngươi đến vào giờ nào ? Ngày nào ?” ( Mt 24, 42 ).
Phùng Văn Hoá